Proxeed Women hỗ trợ cải thiện chất lượng trứng
Proxeed Women: hỗ trợ chất lượng trứng và các quá trình sinh lý liên quan đến khả năng sinh sản của phụ nữ để tăng cơ hội thụ thai
Công thức hỗ trợ khả năng sinh sản của phụ nữ Proxeed Women được nghiên cứu để cải thiện khả năng mang thai.
Tác dụng: cải thiện các quá trình liên quan đến các quá trình thụ tinh thực sự cũng như tối ưu hoá sự phát triển rất quan trọng của trứng và sự thụ tinh thành công.
Proxeed Women bổ sung chất dinh dưỡng bao gồm L-carnitin, acetyl-L-carnitin, các vitamin và khoáng chất được nghiên cứu chuyên biệt để hỗ trợ chất lượng trứng và các quá trình sinh lý liên quan đến khả năng sinh sản của phụ nữ.
Các hợp chất chuyển hoá, các chất chống oxy hoá và các vi chất dinh dưỡng hiện diện trong công thức của sản phẩm có tác dụng làm giảm ảnh hưởng các gốc tự do được hình thành trong các quá trình chuyển hoá của tế bào và tăng cao trong các điều kiện môi trường và các áp lực khác có thể gây tổn thương đến cơ quan sinh sản, trứng và các quá trình sinh lý chung của cơ thể. Công thức sản phẩm dưới dạng hạt bột dùng pha thành dung dịch uống; các hoạt chất chính của sản phẩm (1 gói) được mô tả chi tiết trong bảng dưới đây.
Bảng 4: Proxeed Women: Thành phần
Vai trò của các thành phần trong việc tối ưu hoá khả năng sinh sản của phụ nữ
L-CARNITIN FUMARAT
L-carnitin là một chất thiết yếu của quá trình chuyển hoá đối với sự sống của tế bào, cần thiết cho sự vận chuyển các axít béo chuỗi dài qua màng trong ty thể, dùng để sử dụng cho quá trình chuyển hoá và sản xuất năng lượng. L-carnitin được tìm thấy trong tất cả các tế bào và đóng vai trò chủ yếu trong chuyển hoá năng lượng, cũng như các chức năng quan trọng khác của tế bào (Binienda và Virmani, 2003, Virmani và Binienda, 2004)
Càng ngày càng có nhiều chứng cứ hỗ trợ về việc kiểm soát sản phẩm oxy hoá từ quá trình chuyển hoá. Carnitin đóng vai trò một chất chống oxy hoá thông qua việc kiểm soát các dạng oxy phản ứng (ROS), cho thấy hoạt động phòng ngừa chuyên biệt chống lại quá trình peroxid hoá lipid và tổn thương màng, là những hiện tượng phân tử chứng minh một chuỗi các diễn tiến dẫn đến sự bắt đầu 1 quá trình gây bệnh.
Các nghiên cứu cho thấy Carnitin làm giảm tổn thương cấu trúc tế bào trứng và sự tự hoại tế bào phôi thai. Carnitin, qua hệ thống vận chuyển axit béo, là đối tác chính trong quá trình beta oxy hoá lipid. Trong quá trình trưởng thành của tế bào trứng, các enzym liên quan đến quá trình bêta oxy hoá lipid thể hiện rất mạnh mẽ.
Về chi tiết, L-carnitin có tác dụng bảo vệ chống lại các chất có hại có mặt trong dịch màng bụng ở bệnh nhân bị lạc nội mạc tử cung, là những chất có thể ảnh hưởng đến cấu trúc tế bào trứng và sự hình thành phôi thai (Mansour 2008)
Dựa trên chứng cứ này, các tác giả đề nghị bổ sung L-carnitin ở các bệnh nhân lạc nội mạc tử cung, một xu hướng mới có thể giúp cải thiện sự thụ tinh.
Nghiên cứu của Montjean và các cộng sự, 2012, đã đánh giá sự thể hiện của các enzym tổng hợp carnitin và quá trình bêta oxy hoá lipid ở các tế bào hạt ở các bệnh nhân. Họ nhận thấy rằng trong các tế bào trứng, các enzym cần thiết cho sự chuyển hoá axít béo xuất hiện và được kích hoạt mạnh với sự hiện diện của carnitin, do đó họ kết luận rằng carnitin trong tế bào trứng cần thiết cho sự trưởng thành của trứng. Các tác giả kết luận rằng những bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm có thể có thuận lợi khi được bổ sung carnitin.
Vai trò của quá trình bêta oxy hoá và L-carnitin trong khả năng phát triển của tế bào trứng đã được xác nhận bởi Dunning và các cộng sự (2010) trong 1 nghiên cứu trên chuột. Bằng chứng chính của nghiên cứu này là sự ức chế quá trình bêta oxy hoá trong suốt quá trình trưởng thành của tế bào trứng hay sự phân tách hợp tử, sự phát triển phôi nang tiếp theo bị suy yếu, trong khi sự bổ sung L-carnitin trong suốt quá trình trưởng thành của trứng làm tăng rõ rệt quá trình bêta oxy hoá và cải thiện khả năng phát triển.
Vì vậy, carnitin là 1 đồng yếu tố quan trọng đối với việc phát triển trứng, và các axít béo là một nguồn năng lượng quan trọng đối với trứng và sự phát triển phôi thai.
Hơn nữa, L-carnitin có thể ổn định hoá trục sinh dục-tuyến yên-vùng dưới đồi và bảo vệ các tế bào mô như buồng trứng (Virmani A., Angeli a., 2013)
Carnitin cần thiết cho quá trình oxy hoá trong ty thể của các axít béo và đóng vai trò quan trọng trong nguồn cung cấp năng lượng của tế bào trứng và phôi thai. Rối loạn chuyển hoá carnitin có thể làm suy yếu khả năng sinh sản ở các bệnh nhân đang thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm. (Varnagy 2013)
Varnagy và các đồng nghiệp đã cho thấy rằng các yếu tố nổi bật của khả năng sinh sản (số lượng trứng) có liên quan đến sự giảm carnitin tự do (FC) cả trong huyết thanh lẫn dịch nang, vì vậy ông đã đề nghị bổ sung Carnitin để tối ưu hóa khả năng phát triển của trứng và của phôi thai giai đoạn sớm ở những bệnh nhân tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm. L-carnitin. (Varnagy 2013)
ACETYL-L-CARNITIN
Acetyl-L-carnitin là este acetyl của L-carnitin (Virmani và Binienda, 2004). Acetyl-L-carnitin
là dạng nổi bật nhất của carnitin, quan trọng trong chức năng của ty thể và đã chứng minh tác động tích cực trên trục nội tiết thần kinh trong các thử nghiệm in vitro (Virmani 1991)
Acetyl-L-carnitin đã cho thấy khả năng bảo vệ chức năng ty thể chống lại những chất độc từ các quá trình chuyển hoá (Virmani 1995) , ổn định hoá màng cũng như các chất chống oxy hoá, dẫn đến kết quả bảo vệ tế bào và các tác dụng chống tự hoại tế bào (apoptosis) (Virmani và Binienda, 2004) Các đặc tính tổng quát này cũng có thể bảo vệ buồng trứng và vì vậy làm tăng chất lượng tế bào trứng cũng như các mô sinh sản khác như biểu mô của ống dẫn trứng và tử cung.
Acetyl-L-carnitin ngoài ra còn điều tiết nội tiết tố trong trục tuyến yên-vùng dưới đồi (Krsmanovic, 1992)
Trong thử nghiệm này, việc điều trị bằng Acetyl-L-carnitin ảnh hưởng đến chức năng tuyến yên-vùng dưới đồi tùy theo giai đoạn của chu kỳ, và làm tăng hoạt động bài tiết của các tế bào sinh dục, và điều này có ảnh hưởng tích cực trên khả năng sinh sản. ALC còn tác dụng trên sự phóng thích nội tiết tố sinh dục liên quan đến làm tăng chức năng tế bào thần kinh của GnRH ở vùng dưới đồi. Hơn nữa, Acetyl-L-carnitin làm tăng trọng lượng tử cung.
Để kết luận, Acetyl-L-carnitin và L-carnitin đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất năng lượng cũng như bảo vệ tính toàn vẹn của tế bào. Các chứng cứ cho thấy 2 dạng carnitin này quan trọng đối với việc duy trì chất lượng trứng, hỗ trợ chu trình nội tiết tố bình thường, và cung cấp năng lượng để duy trì mô cổ tử cung, tử cung và buồng trứng khoẻ mạnh
FOLAT
Folat thuộc nhóm vitamin B và liên quan đến nhiều quá trình sinh hoá, đặc biệt trong chuyển hoá homocystein. Sự thiếu hụt folat do chế độ ăn uống hay do di truyền sẽ dẫn đến suy giảm nồng độ homocystein, liên quan đến nhiều bệnh lý khác nhau, dẫn đến rối loạn chức năng tế bào và tự hoại tế bào. (Forges 2007)
Mối liên quan của chuyển hoá folat và homocystein trong các bệnh liên quan đến tuổi tác, đưa đến phát triển nhiều dị tật và các biến chứng của thai kỳ (ví dụ: dị tật ống thần kinh) qua các nghiên cứu khoa học. Có chứng cứ về sự tương quan trực tiếp giữa sự bổ sung axít folic và nồng độ homocystein trong dịch nang. (Forges, 2007).Nồng độ homocystein trong dịch nang thấp, có được do sự bổ sung axít folic, có liên quan đến cơ hội mang thai lâm sàng tốt hơn (Ocal 2012)
Nghiên cứu thực hiện trên 50 phụ nữ vô sinh đang tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm: gây rụng trứng qua cách sử dụng các chất đối kháng GnRH và gonadotropin. Đối với mỗi bệnh nhân, nồng độ homocystein trong dịch nang được đo bằng phương pháp đo độ đục sau khi thu gom các tế bào trứng. Kết quả cho thấy rằng không có khác biệt đáng kể về mặt thống kê giữa các phụ nữ mang thai và không mang thai có cùng độ tuổi, thời gian vô sinh, chỉ số khối cơ thể, thông số chất lượng tế bào trứng-phôi, và nồng độ nội tiết tố. Thay vào đó, nồng độ homocystein cao hơn rõ rệt được ghi nhận ở những phụ nữ không mang thai khi so sánh với những phụ nữ mang thai.
VITAMIN A: CÁC BÊTA CAROTENOID
Vitamin A là 1 dưỡng chất thiết yếu cần thiết cho việc duy trì sức khoẻ của mắt và cho thị giác, sự tăng trưởng, chức năng miễn dịch, và sự sinh tồn (WHO 2002)
Tổng cộng, khoảng 0,8 triệu (1,4%) ca tử vong trên toàn thế giới là do thiếu hụt vitamin A, 1,1% nam giới và 1,7% phụ nữ và trên 4-6% trong tất cả loại bệnh ở châu Phi được đánh giá là do kết quả của việc thiếu hụt vitamin A.
Vitamin A đã được chứng minh là thiết yếu đối với thị giác, sự tăng trưởng, sự sinh sản, và biệt hóa biểu mô và sự bài tiết chất nhầy (Hemken, 1982)
Bên cạnh những vấn đề về mắt, thiếu hụt vitamin A còn có liên quan đến hư thai, trọng lượng thấp ở trẻ sơ sinh thấp, sinh non và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh (WHO 2002)
Các chứng cứ cho thấy dạng hoạt hoá của vitamin A, axít retinoic (RA), có chức năng như một chất điều tiết sự diễn đạt gien. Người ta ghi nhận những tác dụng tích cực của việc bổ sung vitamin A trên khả năng sinh sản ở bò khi thực hiện thụ tinh nhân tạo, và có nhiều nghiên cứu tác dụng của các chất chuyển hoá của vitamin A trong việc áp dụng các kỹ thuật sinh sản nhân tạo (ART), bao gồm sự siêu rụng trứng, sự tiếp nhận trứng, sự nuôi cấy trưởng thành trong ống nghiệm, chứng minh vai trò chuyên biệt của vitamin A trong sự trưởng thành của nguyên sinh chất của tế bào trứng(Ikeda 2005)
VITAMIN B12
Vitamin B12 cần thiết cho sự hoạt hoá axít folic. B12 cùng với axit folic cần thiết cho sự tạo thành ADN và mô hệ thần kinh. B12 cũng là chất chống oxy hoá tự nhiên và cùng với vitamin B6 và axít folic, làm giảm nồng độ homocystein cao (Forges 2007, Cetin 2010)
Ảnh hưởng của B12 trên khả năng sinh sản và thai kỳ đã được đánh giá bởi Bennett và các đồng nghiệp qua bệnh sử sản khoa của 14 bệnh nhân có 15 giai đoạn thiếu hụt vitamin B12 (Bennett 2001)
Vô sinh (4-8 năm) đã được ghi nhận ở 4 trường hợp, và sẩy thai tái phát là 11 trường hợp, 6 trường hợp sẩy thai tiếp theo bởi các thời kỳ vô sinh cao hơn 1 năm.
Các tác giả kết luận rằng khả năng đông máu cao do nồng độ homocystein tăng cao có thể dẫn đến sẩy thai khi có thiếu hụt vitamin B12. Thiếu hụt kéo dài B12 dẫn đến vô sinh do rối loạn rụng trứng hoặc phát triển của trứng hoặc những thay đổi ảnh hưởng việc làm tổ.
VITAMIN B5 VÀ B6
Vitamin B5, còn gọi là axít pantothenic, là 1 trong 8 vitamin nhóm B. Tất cả các vitamin nhóm B giúp cơ thể chuyển hóa đường carbonhydrate trong thức ăn thành năng lượng (glucose). Nhóm vitamin B này (vitamin B complex) cũng giúp cơ thể sử dụng các chất béo và protein.
Ngoài ra vitamin B5 còn đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất hồng cầu, và các nội tiết tố sinh dục sản xuất tại tuyến thượng thận (Đại học Maryland)
Vai trò quan trọng của vitamin B6 trong khả năng sinh sản được chứng minh rõ qua nghiên cứu của Ronnenberg và các đồng nghiệp, đánh giá tình trạng vitamin B6 và kết quả mang thai trên 1.165 chu kỳ kinh nguyệt từ 364 phụ nữ Trung Quốc. Kết quả là, các phụ nữ có nồng độ vitamin B6 cao nhất có khả năng thụ thai cao hơn 60-120% và tỷ lệ sẩy thai sớm thấp hơn 50%. Điều này có nghĩa là tình trạng đủ vitamin B6 có liên quan với khả năng thụ thai cao hơn 40% và nguy cơ sẩy thai sớm giảm 30%.
L-ARGININ
L-Arginin là 1 axít amin được nghiên cứu làm tăng đáp ứng buồng trứng, khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung, và tỷ lệ mang thai ở các bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm được bổ sung L-arginin. Nghiên cứu tiến cứu, ngẩu nhiên của Battaglia và các đồng nghiệp về vai trò của L-arginin thấy cải thiện dòng chảy Doppler tại nang trứng và tử cung và đáp ứng buồng trứng đối với godanotropin ở những phụ nữ đáp ứng chậm (Battaglia 1999)
Oxít nitric là một chất điều tiết chức năng buồng trứng đã được chứng minh qua nghiên cứu cho thấy việc bổ sung L-arginin trong suốt quá trình kích thích buồng trứng làm tăng nồng độ nitrit/ nitrat và L-arginin trong huyết tương, làm giãn mạch, tăng tính thẩm thấu của biểu mô nang và ảnh hưởng tích cực lên kết quả mang thai.
VITAMIN C VÀ E
Vitamin C và E là những chất có khả năng thu dọn hay ngăn chặn sự hình thành các dạng oxy phản ứng (ROS). Các nghiên cứu trong ống nghiệm và trên động vật cho thấy rằng áp lực oxy hoá có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản và sẩy thai sớm theo nhiều đường khác nhau. (Ruder 2008)
Một mô hình thực nghiệm xem xét tác dụng của một chế độ ăn uống thiếu vitamin E trên những thay đổi về mô của buồng trứng ở những chuột cái chưa đến tuổi dậy thì, cho thấy sự thiếu vitamin E ức chế sự tăng trưởng của tử cung.
Trong một mô hình thực nghiệm tiến xa hơn, việc bổ sung vitamin C và E ngăn ngừa suy giảm rụng trứng liên quan đến tuổi, làm tăng rõ rệt phần trăm các trứng bình thường và làm giảm phần trăm các trứng hoại tử (Ruder 2008)
Cuối cùng, vitamin C và E cũng hiện diện ở các nồng độ khá cao trong thể vàng là nơi chúng có thể đóng 1 vai trò quan trọng trong viêc thu dọn các gốc tự do.
Ở người, một nghiên cứu đã được thực hiện trên 30 phụ nữ được lựa chọn ngẫu nhiên từ các phòng khám tư trong thời gian 8 tháng từ tháng 12/2008 đến 07/2009. 10 người trong số họ có khả năng sinh con và 10 người còn lại vô sinh. Họ được siêu âm kiểm tra để đánh giá độ dày nội mạc tử cung, và đo nồng độ của estrogen và progesteron, liên quan đến việc bổ sung vitamin C trong thời gian khoảng 58 ngày trong 2 chu kỳ kinh nguyệt liên tiếp. (Al Katib 2013)
Việc kiểm tra siêu âm độ dày của nội mạc tử cung tăng rõ rệt (p<0,05) ở cả 2 chu kỳ. Trong cả 2 nhóm, có sự tăng rõ rệt nồng độ progesteron trong huyết thanh ở chu kỳ thứ 2, cho thấy ảnh hưởng tích cực của vitamin C trên tử cung và chức năng buồng trứng.
KẼM
Kẽm là 1 vi chất dinh dưỡng có nhiều trong thịt và hải sản. Kẽm có tác dụng liên quan đến sự sao chép ADN và sự tổng hợp protein, là phần chủ yếu của sự phát triển tế bào mầm, vì thế kẽm rất quan trọng đối với sự sao chép DNA. Hơn nữa, kẽm cũng có những đặc tính chống oxy hoá và chống tự hoại tế bào (Ebisch 2007)
Kẽm cũng cho thấy có tác dụng tích cực trên đáp ứng của buồng trứng đối với liệu pháp dùng gonadotropin ở bênh nhân thụ tinh trong ống nghiệm (Dickerson 2011)
SELEN
Selen là yếu tố vi lượng thiết quan trọng trong sự tăng trưởng bình thường và sự sao chép DNA ở người và động vật, và hiện nay selen được đề nghị bổ sung trong chính sách y tế công cộng ở những khu vực địa lý có sự thiếu hụt selen nghiêm trọng trong đất (Mistry 2012) như những vùng núi lửa.
Selen đặc biệt quan trọng đối với sự sao chép và mang thai (chất 6 glutathion peroxidase) Đặc tính chống oxy hóa làm suy giảm sản xuất các gốc tự do, giúp duy trì tính nguyên vẹn của màng tế bào.
Một nghiên cứu đã nhận thấy rằng các bệnh nhân với tình trạng vô sinh vô căn, có nồng độ selen trong nang suy giảm rõ rệt so với những bệnh nhân vô sinh do ống dẫn trứng hoặc vô sinh có nguyên nhân liên quan đến nam giới đã được biết. Hơn nữa, sự thiếu hụt selen có liên quan đến những vấn đề mang thai khác, bao gồm hư thai và chứng tiền sản giật. (Mistry 2012)
SẮT VÀ ĐỒNG
Sắt và đồng đều là vi chất thiết yếu, vì chúng có thể vừa nhận và cho electron, do đó là trung tâm của nhiều phản ứng hoá học phụ thuộc năng lượng (Gambling 2011)
Ví dụ, đồng là một phần quan trọng của các enzym ferroxidase ceruloplasmin, hephaestin và zyklopen, cũng như các enzym như dopamine beta monoxygenase, trong khi sắt là 1 phần của điểm phân giải của nhiều cytochrom và enzym liên quan đến sự giảm độ bảo hoà của axít béo. Do đó tình trạng thiếu sắt và đồng đặc biệt trong suốt thời gian mang thai là khi sự biệt hoá tế bào rất cao, có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.
Các mô hình thực nghiệm đã cho thấy gây tình trạng gây quái thai liên quan đến sự thiếu hụt đồng có thể 1 phần là do tổn thương gây ra bởi các gốc tự do xảy ra do hệ thống phòng vệ sự oxy hoá bị suy yếu. Hơn nữa, các phôi thai thiếu hụt đồng cũng có hoạt động cytochrom C oxidase thấp so với các phôi thai của nhóm chứng, cho thấy rằng nhiều yếu tố góp phần vào những bất thường do thiếu hụt đồng (Celin 2010)
Sự thiếu hụt sắt là sự thiếu hụt chất dinh dưỡng phổ biến nhất trên thế giới. Vấn đề là phụ nữ ở độ tuổi sinh sản và những phụ nữ đã mang thai đã không có đủ nguồn dự trữ sắt hoặc đã thiếu hụt sắt rồi. Thiếu máu trước khi thụ thai, đặc biệt thiếu máu do thiếu sắt, có liên quan đến suy giảm tăng trưởng của trẻ sơ sinh và tăng tỷ lệ mang thai có nguy cơ cao. Bệnh thiếu máu trước khi thụ thai có tác động trên sự tăng trưởng của trẻ sơ sinh qua việc ảnh hưởng trên sự tổng hợp nội tiết hoặc thiếu máu nhẹ trước khi có thai có thể trở nên thiếu máu nặng trong thai kỳ cũng dẫn đến sự suy giảm tăng trưởng (Celin 2010)
VITAMIN D
Có bằng chứng rằng bên cạnh các nội tiết tố steroid sinh dục, là những chất điều tiết cổ điển của quá trình sinh sản ở người, vitamin D cũng điều chỉnh các quá trình sinh sản ở nam và nữ. (Lerchbaum 2011)
Đặc biệt, thụ thể của vitamin D (VDR) đã được tìm thấy ở nhiều mô sinh sản, cho thấy rằng vitamin D điều tiết chức năng tuyến yên, nội mạc tử cung và buồng trứng, cũng như sự phát triển nhau thai.
Ở phụ nữ VDR đã được tìm thấy trong buồng trứng, trong canh cấy các tế bào hạt từ buồng trứng cho thấy vai trò Vitamin D trong việc tạo các steroid nội tiết sinh dục. Hơn nữa, VDR đã được thấy ở tuyến yên của người cũng như trong nội mạc tử cung và nhau thai của người. Do đó việc bổ sung vitamin D là rất quan trọng.
N-ACETYL-CYSTEIN (NAC)
N-Acetyl-cystein (NAC), một hợp chất chống oxy hoá và phân giải chất nhầy được sử dụng rộng rãi trong bệnh hô hấp, cũng rất tốt cho khả năng sinh sản.
Đặc biệt NAC cải thiện sự rụng trứng và tỷ lệ mang thai song song với việc điều trị chuẩn bằng clomiphen citrat (CC) trong một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên mù đôi kiểm chứng với giả dược ở 180 bệnh nhân vô sinh do đa nang buồng trứng. Trong thử nghiệm này, số lượng nang > 18 mm và độ dày nội mạc tử cung trung bình vào ngày dùng hCG cao hơn rõ rệt trong nhóm CC+NAC (giá trị P=0,001). Rụng trứng và tỷ lệ mang thai cũng cao hơn rõ rệt trong nhóm CC+NAC (giá trị P=0.02 và 0,04 tương ứng). Không thấy có phản ứng phụ có hại và không có trường nào bị hội chứng siêu kích trứng ở nhóm sử dụng NAC (Salepour 2012)
Người ta nghĩ rằng tác dụng này là do những ảnh hưởng tốt của NAC qua tác dụng giảm áp lực oxy hoá và giảm đề kháng insulin.
Hơn nữa, hoặc động phân giải chất nhầy của NAC có thể có ảnh hưởng thuận lợi trong việc làm giảm độ nhớt của chất nhầy cổ tử cung và làm tăng sự thâm nhập của tinh trùng vào tế bào trứng.
Nguồn: assopharma.com
Chủ đề: Vô sinh Vô sinh nam Vô sinh nữ Proxeed Proxeed Women Cải thiện chất lượng trứng Tăng khả năng thụ thai Chuẩn bị trước khi có con Đa nang buồng trứng
Bài viết liên quan
- Hàng giả, hàng xách tay Proxeed® Plus và Proxeed® Women
- Proxeed Women ngăn ngừa sẩy thai trong 3 tháng đầu của thai kỳ
- PROXEED WOMEN DƯỢC DINH DƯỠNG HỖ TRỢ TRƯỚC, TRONG VÀ SAU KHI THỤ THAI, LỢI ÍCH LỚN NHƯ THẾ NÀO?
- Proxeed Women duy trì sự phát triển ổn định của tế bào trứng
- Proxeed Women với N-Acetyl-Cysteine (NAC) có lợi cho phụ nữ có hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS)