Proxeed Women: hỗ trợ chất lượng trứng và các quá trình sinh lý liên quan đến khả năng sinh sản của phụ nữ để tăng cơ hội thụ thai

Công thức hỗ trợ khả năng sinh sản của phụ nữ Proxeed Women được nghiên cứu để cải thiện khả năng mang thai. Proxeed Women làm được điều này bằng cách cải thiện các quá trình liên quan đến các quá trình thụ tinh thực sự cũng như tối ưu hoá sự phát triển quan trọng và thành công của trứng đã được thụ tinh.

Proxeed Women là 1 sản phẩm bổ sung chất dinh dưỡng chứa L-carnitin, acetyl-L-carnitin, các vitamin và khoáng chất được nghiên cứu chuyên biệt để hỗ trợ chất lượng trứng và các quá trình sinh lý liên quan đến khả năng sinh sản của phụ nữ.

Các hợp chất chuyển hoá, các chất chống oxy hoá và các vi chất dinh dưỡng có trong công thức sản phẩm giúp làm giảm tác động của các gốc tự do được hình thành trong các quá trình chuyển hoá của tế bào và được kích thích tăng cao trong các điều kiện môi trường và các điều kiện có tính áp lực có thể gây tổn thương đến các cơ quan sinh sản, trứng và các quá trình sinh lý chung của cơ thể liên quan đến các quá trình sinh sản. Công thức sản phẩm bao gồm các hạt bột dùng pha dung dịch uống; các hoạt chất chính của sản phẩm (1 gói) được mô tả chi tiết trong bảng dưới đây

Bảng 4: Proxeed Women: Thành phần

Vai trò của các thành phần trong việc tối ưu hoá khả năng sinh sản của phụ nữ

L-CARNITIN FUMARAT

L-carnitin là 1 hợp chất thiết yếu của các quá trình chuyển hoá đối với sự sống của tế bào, vì nó hoàn toàn cần thiết cho việc vận chuyển các axít béo chuỗi dài qua màng trong ty thể để sử dụng cho quá trình chuyển hoá và sản xuất năng lượng của tất cả tế bào trong cơ thể. L-carnitin được tìm thấy trong tất cả các tế bào và đóng vai trò chủ yếu trong chuyển hoá năng lượng, cũng như các chức năng quan trọng khác của tế bào (Binienda và Virmani, 2003, Virmani và Binienda, 2004)

Càng ngày càng có nhiều chứng cứ hỗ trợ về việc kiểm soát áp lực oxy hoá qua quá trình chuyển hoá. Carnitin đóng vai trò một chất chống oxy hoá thông qua việc kiểm soát các dạng oxy phản ứng (ROS), cho thấy hoạt động phòng ngừa chuyên biệt chống lại quá trình peroxid hoá lipid và tổn thương màng, là những hiện tượng phân tử chứng minh một chuỗi các diễn tiến dẫn đến sự bắt đầu 1 quá trình gây bệnh.

Các nghiên cứu đề nghị rằng carnitin làm giảm tổn thương cấu trúc tế bào trứng và sự hoại tử tế bào phôi thai. Carnitin, qua hệ thống vận chuyển carnitin, là  đối tác chính trong quá trình beta oxy hoá lipid. Trong quá trình đạt được khả năng của tế bào trứng, các enzym liên quan đến quá trình bêta oxy hoá lipid thể hiện rất mạnh mẽ.

Về chi tiết, L-carnitin có tác dụng bảo vệ chống lại các chất có hại có mặt trong dịch màng bụng của những phụ nữ mặc bệnh lạc nội mạc tử cung, là những chất có thể ảnh hưởng đến cấu trúc tế bào trứng và sự hình thành phôi thai (Mansour 2008)

Dựa trên chứng cứ này, các tác giả đề nghị bổ sung L-carnitin ở các bệnh nhân lạc nội mạc tử cung, một xu hướng mới có thể giúp cải thiện sự thụ tinh.

Một nghiên cứu thực nghiệm (Montjean và các cộng sự, 2012) đã đánh giá sự thể hiện của các enzym tổng hợp carnitin và quá trình bêta oxy hoá lipid ở các tế bào đám mây tại thời điểm phục hồi của trứng và trong trứng từ các bệnh nhân. Họ nhận thấy rằng trong các tế bào trứng, các enzym cần thiết cho sự chuyển hoá axít béo xuất hiện trong sự hiện diện của carnitin đã có hoạt tính rất cao và vì vậy họ đề nghị rằng carnitin trong tế bào trứng cần thiết coh sự trưởng thành của trứng. Các tác giả kết luận rằng những bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm có thể có lợi từ việc bổ sung carnitin.

Vai trò của quá trình bêta oxy hoá và L-carnitin  trong khả năng phát triển của tế bào trứng đã được xác nhận bởi Dunning và các cộng sự (2010) trong 1 nghiên cứu trên chuột. Bằng chứng chính của nghiên cứu này là sự ức chế quá trình bêta oxy hoá trong suốt quá trình trưởng thành của tế  bào trứng hay sự phân tách hợp tử, sự phát triển phôi nang tiếp theo bị suy yếu, trong khi sự bổ sung L-carnitin trong suốt quá trình trưởng thành của trứng làm tăng rõ rệt quá trình bêta oxy hoá và cải thiện khả năng phát triển.

Vì vậy, carnitin là 1 cofactor quan trọng đối việc phát triển trứng, và các axít béo là một nguồn năng lượng quan trọng đối với trứng và sự phát triển phôi thai. Hơn nữa, L-carnitin có thể ổn định hoá trục sinh dục-tuyến yên-vùng dưới đồi và bảo vệ các tế bào mô như buồng trứng (Virmani A., Angeli a., 2013)

Các Carnitin cần thiết cho quá trình oxy hoá trong ty thể của các axít béo và đóng vai trò quan trọng trong nguồn cung cấp năng lượng của tế bào trứng và phôi thai và sự rối loạn chuyển hoá carnitin có thể làm suy yếu khả năng sinh sản ở các bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm. (Varnagy 2013)

Varnagy và các đồng nghiệp đã chỉ ra rằng các yếu tố nổi bật của khả năng sinh sản (số lượng trứng) có liên quan đến sự giảm carnitin tự do (FC) cả trong huyết thanh lẫn dịch nang, vì vậy đề nghị rằng khả năng phát triển của trứng và của phôi thai giai đoạn sớm ở những bệnh nhân tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm có thể được tối ưu hoá bằng việc bổ sung L-carnitin. (Varnagy 2013)

ACETYL-L-CARNITIN

Acetyl-L-carnitin là este acetyl của L-carnitin (Virmani và Binienda, 2004). Acetyl-L-carnitin là dạng nổi bật nhất của carnitin và quan trọng trong chức năng của ty thể và đã cho thấy tác động tích cực trên trục nội tiết thần kinh trong các điều kiện thực nghiệm kích thích stress sáng-tối trong những thực nghiệm tiền lâm sàng (Virmani 1991)

Acetyl-L-carnitin  đã cho thấy khả năng bảo vệ chức năng ty thể chống lại những chất độc từ các quá trình chuyển hoá (Virmani 1995) , ổn định hoá màng cũng như các tính chất chống oxy hoá, dẫn đến kết quả bảo vệ tế bào và các tác dụng chống hoại tử tế bào (Virmani và Binienda, 2004) Các đặc tính tổng quát này cũng có thể bảo vệ buồng trứng và vì vậy làm tăng chất lượng tế bào trứng cũng như các mô sinh sản khác như biểu mô của ống dẫn trứng và tử cung. Hơn nữa, Acetyl-L-carnitin có thể điều tiết nội tiết tố trong trục Sinh dục-Tuyến yên-vùng dưới đồi (Krsmanovic, 1992)

Trong nghiên cứu thực nghiệm này, việc điều trị bằng Acetyl-L-carnitin ảnh hưởng đến chức năng tuyến yên-vùng dưới đồi theo kiểu phụ thuộc giai đoạn của chu trình, và làm tăng hoạt động bài tiết của các tế bào kích dục, và điều này có ảnh hưởng tích cực trên khả năng sinh sản. Có thể các tác dụng của nó trên sự giải phóng nội tiết tố sinh dục liên quan đến làm tăng chức năng tế bào thần kinh của GnRH ở vùng dưới đồi. Hơn nữa, Acetyl-L-carnitin làm tăng trọng lượng tử cung.

Để kết luận, Acetyl-L-carnitin và L-carnitin đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất năng lượng tế bào cũng như bảo vệ tính toàn vẹn của tế bào. Các bằng chứng đã có đề nghị rằng 2 dạng carnitin này là quan trọng đối với việc duy trì chất lượng trứng, hỗ trợ chu trình nội tiết tố bình thường, và cung cấp năng lượng  để duy trì mô cổ tử cung, tử cung và buồng trứng khoẻ mạnh.

FOLAT

Folat thuộc nhóm vitamin B và liên quan đến 1 số lượng lớn các quá trình sinh hoá, đặc biệt trong chuyển hoá homocystein. Sự thiếu hụt folat do chế độ ăn uống hay được xác định do di truyền sẽ dẫn đến nồng độ homocystein trong máu thấp, điều này có liên quan đến các bệnh lý khác nhau. Có 1 số rối loạn chức năng liên quan đến việc thiếu hụt folat,  mà trên tổng thể, dẫn đến rối loạn chức năng tế bào và sự hoại tử tế bào. (Forges 2007)

Trong khi sự liên quan của chuyển hoá folat và homocystein trong các bệnh liên quan đến tuổi tác, trong nhiều dị tật phát triển và trong các biến chứng của thai kỳ  (ví dụ: dị tật ống thần kinh) đã làm tăng số lượng nghiên cứu khoa học, vai trò của các yếu tố sinh hoá này trong các giai đoạn sớm của quá trình sinh sản ở động vật có vú và những tác dụng ngăn ngừa có thể trên khả năng sinh sản của việc bổ sung folat , cho đến gần đây, vẫn chưa được điều tra nhiều.

Có bằng chứng về sự tương quan trực tiếp giữa sự bổ sung axít folic và nồng độ homocystein trong dịch nang. (Forges, 2007)

Nồng độ homocystein trong dịch nang thấp, có được do sự bổ sung axít folic, có liên quan đến cơ hội mang thai lâm sàng tốt hơn (Ocal 2012)

Nghiên cứu thực hiện trên 50 phụ nữ vô sinh đã chấp nhận tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm. Sự gây rụng trứng được thực hiện bằng cách sử dụng các chất đối kháng GnRH và gonadotropin. Đối với mỗi bệnh nhân, nồng độ homocystein trong dịch nang được đo bằng phương pháp đo độ đục sau khi thu gom các tế bào trứng.

Các kết quả cho thấy rằng không có khác biệt đáng kể về mặt thống kê giữa các phụ nữ mang thai và không mang thai có cùng độ tuổi, thời gian vô sinh, chỉ số khối cơ thể, thông số chất lượng tế bào trứng-phôi, và nồng độ nội tiết tố. Thay vào đó, nồng độ homocystein cao hơn rõ rệt được ghi nhận ở những phụ nữ không mang thai khi so sánh với những phụ nữ mang thai.

VITAMIN A TỪ CÁC BÊTA CAROTENOID

Vitamin A là 1 dưỡng chất thiết yếu cần thiết cho việc duy trì sức khoẻ của mắt và tầm nhìn, sự tăng trưởng, chức năng miễn dịch, và sự sinh tồn (WHO 2002)

Tổng cộng, khoảng 0,8 triệu (1,4%) ca tử vong trên toàn thế giới là do thiếu hụt vitamin A, 1,1% nam giới và 1,7% phụ nữ và trên 4-6% trong tất cả loại bệnh ở châu Phi được đánh giá là do kết quả của việc thiếu hụt vitamin A.

Vitamin A đã được chứng minh là thiết yếu đối với tầm nhìn, sự tăng trưởng, sự sinh sản, và sự duy trì các biểu mô khác biệt và sự bài tiết chất nhầy (Hemken, 1982)

Bên cạnh những vấn đề về mắt, các kết quả khác có khả năng liên quan đến việc thiếu hụt vitamin A là sự hư thai, cân nặng trẻ sơ sinh thấp, sinh non và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh (WHO 2002)

Các bằng chứng thực nghiệm đề nghị rằng dạng hoạt hoá của vitamin A, axít retinoic (RA), có chức năng như 1 chất điều tiết sự diễn đạt gien. Nghiên cứu sớm cho thấy những tác dụng tích cực của việc bổ sung vitamin A  trên khả năng sinh sản của bò trong thụ tinh nhân tạo, và nhiều nghiên cứu trên các tác dụng của các chat chuyển hoá của vitamin A được sử dụng trong các kỹ thuật sinh sản nhân tạo khác (ART), bao gồm sự siêu rụng trứng, sự thu nhận trứng, và sự nuôi cấy trưởng thành trong ống nghiệm đã cuung cấp chứng cứ cho vai trò chuyên biệt của vitamin A trong sự trưởng thành của nguyên sinh chất của tê bào trứng (sự đạt được khả năng hát triển của tế bào trứng). Hơn nữa, RA có thể thúc đẩy sự trưởng thành của nguyên sinh chất của tế bào trứng thông qua tác dụng điều chỉnh của nó trên sự diễn đạt gien của các thụ thể gonadotropin, midkine, cyclooxygenase-2, và nitric oxide synthase trong những tế bào hạt-đám mây (Ikeda 2005)

VITAMIN B12

Vitamin B12 cần thiết cho sự hoạt hoá axít folic. Cùng với axít folic, nó cần thiết cho sự tạo ADN và mô hệ thần kinh. Nó cũng là chất chống oxy hoá tự nhiên và cùng với vitamin B6 và axít folic, nó làm giảm nồng độ homocystein cao (Forges 2007, Cetin 2010)

Ảnh hưởng của nó trên khả năng sinh sản và kết quả của sự mang thai đã được đánh giá bởi Bennett và các đồng nghiệp qua lịch sử sản khoa của 14 bệnh nhân với 15 giai đoạn thiếu hụt vitamin B12 (Bennett 2001)

Vô sinh (4-8 năm) đã được thấy ở 4 trường hợp, và sẩy thai tái diễn đều đặn là 1 đặc điểm trong 11 trường hợp, trong 6 trường hợp thời kỳ sẩy thai được theo sau bởi các thời kỳ vô sinh lớn hơn 1 năm.

Các tác giả kết luận rằng khả năng đông máu cao do nồng độ homocystein tăng cao có thể dẫn đến sẩy thai khi sự thiếu hụt vitamin B12 mới xảy ra. Sự thiếu hụt kéo dài hơn dẫn đến vô sinh do gây ra những thay đổi trong quá trình rụng trứng hoặc sự phát triển của trứng hoặc những thay đổi dẫn đến sự gắn kết bị khiếm khuyết.

VITAMIN B5 VÀ B6

Vitamin B5, cũng được gọi là axít pantothenic, là 1 trong 8 vitamin nhóm B. Tất cả các vitamin nhóm B giúp cơ thể chuyển thức ăn (carbohydrate) thành năng lượng (glucose). Các vitamin nhóm B này, thường được gọi là vitamin B complex, cũng giúp cơ thể sử dụng các chất béo và protein.

Ngoài việc đóng vai trò trong việc phá vỡ các chất béo và carbohydat để tạo năng lượng, vitamin B5  cũng quan trọng  trong sản xuất tế bào hồng cầu, cũng như các nội tiết tố liên quan đến sinh dục sản xuất trong các tuyến thượng thận (Đại học Maryland)

Vai trò quan trọng của vitamin B6 trong khả năng sinh sản được minh họa rõ ràng bằng nghiên cứu của Ronnenberg và các đồng nghiệp, đánh giá tình trạng vitamin B6 và kết quả của sự mang thai trong 1.165 chu kỳ kinh nguyệt từ 364 phụ nữ Trung Quốc. Kết quả là, các phụ nữ với nồng độ vitamin B6 cao nhất có khả năng thụ thai cao hơn 60-120% và tỷ lệ sẩy thai sớm thấp hơn 50%. Tổng quát, những phụ nữ có đủ vitamin B6 có tỷ lệ rủi ro mang thai tương ứng đã được điều chỉnh cao hơn (HR = 1,4) và tỷ lệ chênh lệch được điều chỉnh đối với việc sẩy thai sớm trong các chu kỳ  thụ thai thấp hơn các phụ nữ bị thiếu hụt vitamin B6. Điều này có nghĩa là tình trạng đủ vitamin B6 thì có liên quan với khả năng thụ thai cao hơn 40% và nguy cơ sẩy thai sớm giảm 30%.

Vì vậy, tình trạng vitamin B6 thấp làm giảm khả năng thụ thai và góp phần vào nguy cơ sẩy thai sớm của nhóm dân số này. Nghiên cứu này nhấn mạnh sự quan trọng tiềm tàng của tình trạng vi chất dinh dưỡng ở thời điểm thụ thai trên kết quả mang thai.

L-ARGININ

L-Arginin là 1 axít amin đã các nghiên cứu cho thấy làm tăng đáp ứng buồng trứng, khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung, và tỷ lệ mang thai ở các bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm được bổ sung L-arginin. Nghiên cứu của Battaglia và các đồng nghiệp đã đánh trước và ngẫu nhiên vai trò của L-arginin trong việc cải thiện dòng chảy Doppler của nang và tử cung và trong việc cải thiện đáp ứng buồng trứng đối với godanotropin ở những phụ nữ đáp ứng chậm (Battaglia 1999)

Oxít nitric là một chất điều tiết chức năng buồng trứng đã được chứng minh, và trong nghiên cứu việc bổ sung L-arginin theo đường uống trong suốt quá trình kích thích buồng trứng làm tăng nồng độ nitrit/ nitrat và L-arginin trong huyết tương, liên quan với nồng độ của L-arginin và các dẫn chất của nó trong dịch nang tăng. Các dữ liệu trên tương quan với sự đối kháng lưu lượng máu trong các động mạch gần nang. Vì vậy, có thể kết luận rằng NO, được làm tăng do sự bổ sung L-arginin, hoạt động như 1 chất giãn mạch làm tăng tính thẩm thấu của biểu mô nang đối với protein huyết tương và có tác động tích cực lên kết quả mang thai.

VITAMIN C VÀ E

Vitamin C và E là những hợp chất có khả năng quyết định, thu dọn hay ngăn chặn sự hình thành các dạng oxy phản ứng (ROS). Các nghiên cứu trong ống nghiệm  và trên động vật cho thấy rằng áp lực oxy hoá có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản và sự hư thai sớm theo nhiều đường khác nhau. (Ruder 2008)

Một mô hình thực nghiệm điều tra tác dụng của chế độ ăn uống thiếu vitamin E trên các enzyme gây tiết estrogen của tử cung và trục tuyến yên-sinh dục và những thay đổi về mô của buồng trứng ở những chuột cái chưa đến tuổi dậy thì, cho thấy sự thiếu vitamin E ức chế sự tăng trưởng của tử cung.

Trong một mô hình thực nghiệm xa hơn, việc bổ sung vitamin C và E từng phần ngăn ngừa sự giảm rụng trứng liên quan đến tuổi, làm tăng rõ rệt phần trăm các trứng bình thường và làm giảm phần trăm các trứng hoại tử (Ruder 2008)

Cuối cùng, vitamin C và E cũng hiện diện ở các nồng độ khá cao trong thể vàng là nơi chúng có thể đóng 1 vai trò quan trọng trong viêc thu dọn các ROS.

Ở người, một nghiên cứu đã được thực hiện trên 30 phụ nữ được lựa chọn ngẫu nhiên từ các phòng khám tư và những người thân thuộc trong khoảng thời gian 8 tháng bắt đầu từ tháng 12/2008 đến 07/2009. 10 người trong số họ không kết hôn, 20 người còn lại đã kết hôn: 10 người trong số họ có khả năng sinh con và 10 người còn lại vô sinh. Họ được thực hiện kiểm tra siêu âm để đánh giá độ dày nội mạc tử cung, và đo lường nồng độ trong huyết thanh của cả estrogen và progesteron có liên quan đến việc bổ sung vitamin C trong thời gian khoảng 58 ngày tên 2 chu kỳ kinh nguyệt liên tiếp. (Al Katib 2013)

Việc kiểm tra siêu âm độ dày của nội mạc tử cung tăng rõ rệt (p<0,05) ở cả 2 chu kỳ, trong đó độ dày cao nhất được thấy ở những người đã kết hôn, vô sinh  (10,1+ 1,76) và những người không kết hôn (10,44+ 0,85) khi so với các phụ nữ kết hôn có khả năng sinh con. Trong cùng 2 nhóm, có sự tăng rõ rệt nồng độ progesteron trong huyết thanh ở chu kỳ thứ 2 khi so sánh với những phụ nữ kết hôn có khả năng sinh con, coh thấy chức năng tích cực của vitamin C trên tử cung và chức năng buồng trứng.

KẼM

Kẽm là 1 vi chất dinh dưỡng có nhiều trong thịt và hải sản. Kẽm hoạt động như 1 cofactor cho hơn 80 metalloenzym liên quan đến sự sao chép ADN và sự tổng hợp protein. Bởi vì sự sao chép ADN là phần chủ yếu của sự phát triển tế bào mầm, kẽm dường như quan trọng đối với sự tái bản. Hơn nữa, các protein có liên quan đến kẽm có tham gia vào sự diễn giải gien của các thụ thể nội tiết tố steroid, và kẽm cũng có những đặc tính chống oxy hoá và chống hoại tử tế bào (Ebisch 2007)

Kẽm cũng cho thấy có tác dụng tích cực trên  đáp ứng của buồng trứng đối với liệu pháp trị liệu gonadotropin ở bênh nhân thụ tinh trong ống nghiệm (Dickerson 2011)

SELEN

Selen là yếu tố vi lượng thiết quan trọng đối với sức khoẻ và sinh học ở người. Càng ngày càng có những bằng chứng đề nghị rằng khoáng chất này đóng 1 vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng bình thường và sự sao chép ở người và động vật, và sự bổ sung selen hiện nay được đề nghị như 1 phần trong chính sách y tế công cộng ở những khu vực địa lý có sự thiếu hụt selen nghiêm trọng trong đất (Mistry 2012)

Sự thiếu hụt  như được đánh giá qua chế độ ăn uống và/ hoặc nồng độ trong huyết thanh đã được xác định ở những người cư trú ở những vùng địa lý đáng lưu ý về hàm lượng selen thấp trong đất, như những vùng núi lửa.

Hoạt động sinh học của selen được thực hiện trung gian bởi các selenoprotein, có nghĩa là các protein chứa selen được mã hoá bởi 25 gien của seleno-protein ở người, và tạo ra nhiều tác động trên các chức năng viêm, miễn dịch và nội tiết. Đặc biệt quan trọng đối với sự sao chép và mang thai là 6 glutathion peroxidase  chống oxy hoá (GPxs) là các chất đóng vai trò chủ yếu trong việc giảm peroxid hydro (H2O2) và sự peroxid hoá lipid thanh những sản phẩm vô hại (nước và cồn) vì vậy làm chậm sự nhân rộng của các ROS gây thương tổn. Như các chất chống oxy hoá, các GPxs giúp duy trì tính nguyên vẹn của màng, bảo vệ sự sản xuất prostacyclin và làm giới hạn sự nhân rộng của những tổn thương do oxy hoá đối với lipid, lipoprotein, và ADN

Một nghiên cứu đã nhận thấy rằng các bệnh nhân với tình trạng vô sinh không thể giải thích được có nồng độ selen trong nang giảm rõ rệt so với những bệnh nhân vô sinh do ống dẫn trứng hoặc vô sinh có nguyên nhân liên quna đến nam giới đã được biết. Hơn nữa, sự thiếu hụt selen có liên quan đến những vấn đề mang thai khác, bao gồm hư thai và chứng tiền sản giật. (Mistry 2012)

SẮT VÀ ĐỒNG

Sắt và đồng đều là vi chất thiết yếu. Bởi vì chúng có thể vừa nhận và cho electron, chúng là trung tâm của nhiều phản ứng hoá học phụ thuộc năng lượng (Gambling 2011)

Ví dụ, đồng là một phần quan trọng của các enzym ferroxidase ceruloplasmin, hephaestin và zyklopen, cũng như các enzym như dopamine beta monoxygenase, trong khi sắt là 1 phần của điểm phân giải của nhiều cytochrom và enzym liên quan đến sự giảm độ bảo hoà  của axít béo. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi tình trạng sắt và đồng dưới mức tối ưu, đặc biệt trong suốt thời gian mang thai là khi sự sinh sản và khác biệt hoá tế bào rất năng động, có thể dẫn đến những hậu  quả nghiêm trọng.

Các mô hình thực nghiệm đề nghị rằng sự tồn tại của tình trạng gây quái thai với những rối loạn về hình thể có liên quan đến sự thiếu hụt đồng có thể 1 phần là do tổn thương gây ra bởi các gốc tự do xảy ra do  hệ thống phòng vệ sự oxy hoá bị suy yếu. Hơn nữa, các phôi thai thiếu hụt đồng cũng có hoạt động cytochrom C oxidase thấp  so với các phôi thia của nhóm kiểm soát, cho thấy rằng nhiều yếu tố góp phần vào những bất thường do thiếu hụt đồng (Celin 2010)

Sự thiếu hụt sắt là sự thiếu hụt chất dinh dưỡng phổ biến nhất trên thế giới. Đối với khả năng sinh sản, vấn đề chính là do phụ nữ ở độ tuổi sinh sản và những phụ nữ có thai đã mang thai mà không có đủ nguồn dự trữ sắt hoặc đã thiếu hụt sắt rồi.

Bệnh thiếu máu trước khi thụ thai, đặc biệt thiếu máu do thiếu hụt sắt, được thấy là có liên quan đến giảm sự tăng trưởng của trẻ sơ sinh và tăng nguy cơ của những kết quả mang thai có hại. Một cách hợp lý, có thể cho rằng bệnh thiếu máu trước khi thụ thai có tác động đc lập trên sự tăng trưởng của trẻ sơ sinh bằng cách ảnh hưởng đến sự tổng hợp nội tiết tố hoặc sự thiếu máu nhẹ trước khi có thai có thể trở nên thiếu máu nặng trong thai kỳ dẫn đến sự thiếu tăng trưởng đã được xác nhận (Celin 2010)

VITAMIN D

Có bằng chứng rằng bên cạnh các nội tiết tố steroid sinh dục, là những chất điều tiết cổ điển của quá trình sinh sản ở người, vitamin D cũng điều chỉnh các quá trình sinh sản ở phụ nữ và nam giới (Lerchbaum 2011)

Đặc biệt, thụ thể của vitamin D (VDR)  đã được tìm thấy ở nhiều mô sinh sản, cho thấy rằng vitamin D điều tiết chức năng tuyến yên, nội mạc tử cung và buồng trứng, cũng như sự phát triển nhau thai.

Ở phụ nữ VDR đã được tìm thấy trong buồng trứng, ở các tế bào buồng trứng hỗn hợp, trong sự nuôi cấy các tế bào hạt đã được lọc sạch cho thấy vai trò trong việc tạo các steroid của nội tiết tố sinh dục. Hơn nữa, VDR đã được thấy ở tuyến yên của người cũng như trong nội mạc tử cung và nhau thai của người.

Sau khi xem xét nhiều tác dụng phụ của sự thiếu hụt vitamin D trên các khía cạnh sức khoẻ khác nhau, việc bổ sung vitamin D để có được tình trạng vitamin D đủ là rất quan trọng.

N-ACETYL-CYSTEIN (NAC)

N-Acetyl-cystein (NAC), một hợp chất chống oxy hoá và phân giải chất nhầy được sử dụng rộng rãi trong bệnh phổi, cũng có ích về mặt khả năng sinh sản.

Đặc biệt NAC cải thiện sự rụng trứng và tỷ lệ mang thai bên cạnh việc điều trị tiêu chuẩn với clomiphen citrat (CC) trong một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên mù đôi kiểm soát bằng giả dược ở 180 bệnh nhân vô sinh do đa nang buồng trứng. Trong thử nghiệm này, số lượng nang > 18 mm và độ dày nội mạc tử cung trung bình vào ngày dùng hCG cao hơn rõ rệt trong nhóm CC+NAC (giá trị P=0,001). Sự rụng trứng và tỷ lệ mang thai cũng cao hơn rõ rệt trong nhóm CC+NAC (giá trị P=0.02 và 0,04 tương ứng). Không thấy có phản ứng phụ có hại và không có trường nào bị hội chứng siêu kích trứng ở nhóm sử dụng NAC (Salepour 2012)

Người ta đặt giả thuyết rằng tác dụng này là do những ảnh hưởng tốt của NAC theo hướng giảm áp lực oxy hoá và giảm đề kháng insulin.

Hơn nữa, hoặc động phân giải chất nhầy của NAC có thể có ảnh hưởng tích cực trong việc làm giảm độ nhớt của chất nhầy cổ tử cung và làm tăng sự thâm nhập của tinh trùng vào tế bào trứng.

Nguồn: Assopharma.com

 

Chia sẻ: